Giờ này tám năm trước, Đạt và tôi bắt đầu lên ý tưởng về một lớp học hè tại Việt Nam, tương tự hệ thống Core Curriculum mà chúng tôi được học ở Columbia. Chúng tôi đặt tên nó là Pencil Philosophy, hay Triết học Bút chì. Đi kèm cái tên này là lời giới thiệu về “một dự án giáo dục khai phóng, nơi các bạn trẻ Việt Nam được khám phá những câu hỏi lớn của triết học, khoa học, và nghệ thuật”.
Đã tám năm trôi qua, lời giới thiệu ấy vẫn đúng: mô hình cơ bản của Pencil Philosophy vẫn vậy, dù chúng tôi đã thử nghiệm nhiều dự án và hoạt động hơn (ví dụ bây giờ, ngoài Lớp học Hè, Pencil Philosophy còn có Nhưng mà Thực ra…, một dự án seminars hàng tháng).
Nhưng sau vài năm tổ chức, dần chuyển sang vị trí cố vấn, phải hướng dẫn các lứa ban tổ chức mới tự tổ chức Lớp học Hè, tôi mới nhận ra: Về mặt tổ chức, “giáo dục khai phóng” vốn không phải điều cốt lõi. Triết học hay nghệ thuật cũng không phải cốt lõi. Cũng tựa như, bát phở ngon không phải cốt lõi của một quán phở, dạy đánh vần không phải cốt lõi của lớp cấp 1, iPhone và Macbook không phải cốt lõi của Apple.
Điều cốt lõi của mọi dự án hay sản phẩm trên đời, là cảm xúc của người nhận. Giáo dục khai phóng chỉ là lớp vỏ của Pencil Philosophy (Và quả thực là thế, có bao nhiêu người trên đời biết “giáo dục khai phóng” là gì, nói gì tới cảm nhận? Nếu lấy đấy làm cốt lõi thì chắc Pencil Philosophy đã dẹp tiệm từ lâu…). Điều cơ bản nhất của Pencil Philosophy, đặc biệt là Lớp học Hè, là khi học viên tới Lớp học Hè, họ phải cảm thấy được quan tâm.
Lớp học Hè Pencil Philosophy cố gắng cung cấp sự quan tâm (care) cho học viên. Đây là cốt lõi. Chúng tôi muốn, từ lúc một học viên nghe được về Lớp học Hè, điền đơn, tới lúc đặt chân vào phòng học, bắt chuyện với các học viên khác, tham gia vào các buổi học, rồi ra về—trong tất cả mỗi khoảnh khắc ấy, chúng tôi phải cố gắng khiến họ phải cảm nhận rõ ràng rằng, mình đang được quan tâm. Những người tổ chức Pencil Philosophy có thể thiếu kiến thức hay kinh nghiệm giáo dục (kỳ thực thì trong những người tổ chức Pencil Philosophy, đâu có mấy ai có chuyên môn về giáo dục?), nhưng cảm giác quan tâm là thứ chúng tôi có thể tạo ra—và cố hết sức để tạo ra—cho học viên Pencil Philosophy.
Thế nào là quan tâm? Cứ cho là có nhiều kiểu quan tâm trên đời đi, nhưng với Pencil Philosophy, quan tâm bao gồm ba phần: chủ đích (intention), chú ý (attention), và nỗ lực (effort). Tôi luôn thích ẩn dụ về một cái tủ. Có thể chẳng mấy ai mua tủ đi để tâm tới mặt sau cái tủ, hay sâu bên trong lớp ngăn kéo, có sơn mài chỉnh chu không, có dùng gỗ tốt không. Nhưng một người thợ thủ công tốt, hẳn sẽ quan tâm. Vì người thợ ấy biết, đấy là nghĩa vụ của mình. Và vì người thợ ấy hiểu, chẳng có điều gì làm một người sở hữu tủ ấm áp hơn, khi một lần dịch chuyển cái tủ, rồi nhận ra, đằng sau tủ cũng đẹp chẳng kém cạnh gì mặt tủ cả. Thậm chí người ta có thể chê mặt sau tủ xấu. Chỉ cần họ cảm nhận được, người thợ đã chú ý tới cái mặt sau, có chủ đích thiết kế ra sao, và đã bỏ công chịu khó đẽo gọt trang trí những thứ hiếm ai nhìn thấy, thế là đã đủ ấm lòng rồi.
Chính chúng tôi, những người tổ chức, cũng phải đòi hỏi mình làm được như thế. Tay nghề chúng tôi giỏi hay không thì chịu, nhưng sự quan tâm vốn không phụ thuộc vào tay nghề. Một học viên có thể không đồng ý với những thiết kế hay lựa chọn của Lớp học Hè Pencil Philosophy, sao cũng được. Nhưng chúng tôi phải cho họ biết, tất cả mọi chi tiết thiết kế hay lựa chọn đều đã có tính toán cẩn thận. Chúng tôi phải suy nghĩ lên xuống, phải để tâm từng li từng tí, phải cố hết cả sức mình. Đấy là nhiệm vụ, và cũng là lời hứa, của chúng tôi với học viên Pencil. Không có thứ gì là làm bừa hay ngẫu nhiên cả.
Nếu không được vậy cũng có nghĩa là Pencil Philosophy đã thất bại ở một chừng mực nào đó. Có thể điều này xuất phát từ bản tính của tôi, nhưng tôi luôn tưởng tượng ra ánh mắt—chính xác là ánh mắt—của một học viên khi họ phát hiện ra Pencil Philosophy không quan tâm tới họ như thế. Ánh mắt ấy cũng y như ánh mắt một người mua tủ lúc họ nhận ra đằng sau tủ rất cẩu thả, như ánh mắt một người vừa nhận cúp vàng, rồi phát hiện cái cúp thực ra làm bằng thạch cao, như ánh mắt một đứa học sinh nhận ra thầy cô nó lẽ ra đã có thể làm ra một buổi học chỉnh chu hơn—giá mà thầy cô cố gắng hơn một chút. Mỗi lần như thế thường chỉ hơi thoáng qua, tựa như một vết cắt giấy, có thể người ta sẽ tặc lưỡi cho qua. Nhưng đã là vết cắt, thì là tổn thương rồi.
Cứ nghĩ tới ánh mắt ấy là tôi lại rùng mình, rồi tự đay nghiến lòng mình. Có lẽ trong quá khứ, khi còn đi học, tôi đã nhiều lần có ánh mắt như thế. Nhưng lý do ra sao cũng chẳng quan trọng. Quan trọng là: Đã làm Pencil Philosophy, đã phục vụ những bạn trẻ rõ ràng là ít may mắn hơn tôi, thì không được phép tặc lưỡi trước những ánh mắt ấy, dù chỉ một lần.